Nhật Ký Dưới Âm Phủ - Chương 4
Tiếng chuông nửa đêm sắp vang lên, tôi cũng phải quay về.
Mẹ đã ngủ say, nhưng khóe mắt còn vương lại giọt nước mắt. Nhìn khuôn mặt mẹ khi ngủ, tôi khẽ nói: “Xin lỗi mẹ, con không còn sao nữa, hôm nay vẫn không thể vào giấc mơ của mẹ.”
Giang Dã đứng trên ban công ngước nhìn trời, không biết đang nghĩ gì.
Tôi đứng cạnh, nhìn lên, nhận thấy em trai giờ đã cao lớn hơn tôi rất nhiều. Đứa trẻ từng chạy sau tôi giờ đã thành người đàn ông trưởng thành.
Tôi tựa đầu vào vai Giang Dã, nhẹ nhàng nói: “Giang Dã, sau này ngôi nhà này nhờ cả vào em nhé.”
Tôi đi qua phòng khách, nhà bếp, nhưng không thấy bóng ba đâu. Di ảnh trên bàn cũng không còn ở đó.
Sau vài giây suy nghĩ, tôi biết ba đang ở đâu.
Tôi chậm rãi tiến vào phòng mình, nhìn thấy ba đang ngồi dưới sàn, ôm di ảnh của tôi mà khóc nức nở.
Tôi thở dài một hơi, ngồi xuống cạnh ba, nhẹ nhàng an ủi: “Ba, đừng khóc nữa. Năm sau con sẽ lại về thăm ba.
Hoặc là con sẽ cố gắng tích đủ sao, cố gắng vào giấc mơ của ba trước khi con đầu thai.”
Phòng tôi vẫn y nguyên như mấy năm trước, không hề có một chút bụi. Tôi biết đó là vì ba mẹ luôn đến lau dọn.
Nhìn quanh phòng, tôi thấy mình thật may mắn. Gia đình tôi chưa từng quên tôi, dù chỉ một phút.
Tiếng chuông nửa đêm vang lên, tôi không còn cách nào khác ngoài việc rời đi.
Trước khi đi, tôi ôm lấy ba, thì thầm: “Ba, ba mẹ và Giang Dã phải sống thật tốt nhé.”
Tôi quay lưng bước đi. Vừa ra khỏi phòng, tôi nghe thấy ba khẽ nói: “Nguyệt Nguyệt, con cũng phải chăm sóc bản thân nhé.”
Tôi bối rối, ba có thể nhìn thấy tôi sao? Nhưng khi quay lại, tôi chỉ thấy ba ôm lấy di ảnh, khẽ nói gì đó không rõ.
Tôi lắc đầu mỉm cười, ba không thể thấy tôi đâu, vì tôi đã không còn sống nữa rồi.
Nén lòng không quay lại, tôi nhanh chóng rời khỏi nhà, sợ rằng nếu quay đầu, tôi sẽ không nỡ rời xa nơi này mất.
11.
Ngay khi tôi sắp bước qua cánh cổng trở về Địa Phủ, một luồng sức mạnh bất ngờ kéo tôi ra xa, đưa tôi đến một khoảng đất hoang vắng.
Không đúng, nơi này không hoàn toàn trống rỗng. Cách đó không xa, có một người đang ngồi xổm, quay lưng về phía tôi nên tôi không nhìn rõ khuôn mặt.
Người đó là ai? Vì sao tôi lại đến đây? Sức mạnh nào đã đưa tôi đến nơi này?
Muốn tìm hiểu mọi chuyện, tôi rón rén tiến lại gần người đó, nghĩ rằng anh ta hẳn biết điều gì đó.
“Là ai!”
Khi tôi gần đến nơi, anh ta bất ngờ hét lên một tiếng, khiến tôi giật mình đứng khựng lại. Định lên tiếng giải thích vì sao tôi có mặt ở đây, nhưng khi thấy rõ khuôn mặt anh ta, tôi lại càng kinh ngạc hơn.
“Giản Châu?”
Tôi không thể tin được Giản Châu lại ở đây.
Anh ta cũng ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi: “Sao lại là cô?”
“Tôi còn muốn hỏi anh đây! Sao anh lại ở đây? Nửa đêm tiếng chuông đã vang, anh lẽ ra nên về Địa Phủ rồi chứ?”
“Ai nói tôi sẽ về Địa Phủ?”
“Nhưng anh đã chết rồi! Người chết thì nên ở Địa Phủ chờ đầu thai.”
Giản Châu nhếch mép cười lạnh: “Ai nói là tôi đã chết?”
“Vậy tại sao anh lại ở đây?” Giản Châu nhìn tôi, nhíu mày hỏi: “Cô đến đây làm gì?”
Tôi lườm anh ta, giọng không vui: “Làm sao tôi biết được! Tôi đang định quay về Địa Phủ thì bị kéo đến đây bởi một cỗ lực lượng kỳ lạ, thế là xuất hiện ở đây.”
Nhìn quanh, nơi này không có gì cả. Rốt cuộc Giản Châu làm gì ở đây?
Chợt, tôi ngửi thấy một mùi tanh của máu. Tưởng mình nhầm, tôi lại ngửi thêm vài lần. Đúng là mùi máu, nó phát ra từ người Giản Châu.
Tôi bước lại gần anh ta, chỉ còn cách hai bước, thì phát hiện tay trái Giản Châu cầm một chiếc đèn sắp tắt, còn tay phải đang nhỏ từng giọt máu xuống đất.
“Tay anh sao vậy? Chiếc đèn kia là đèn gì mà trông kỳ lạ thế?”
Giản Châu lập tức giấu chiếc đèn ra sau, nhìn tôi vài giây, ánh mắt chứa đầy sự khó tin: “Giang Nguyệt?”
“Hả?” Tôi không hiểu: “Anh gọi tôi có chuyện gì?”
“Cuối cùng tôi đã hiểu rồi, chiếc đèn dẫn hồn không sai.”
“Mặc dù là hai khuôn mặt khác nhau, nhưng lại cùng một cái tên. Đúng vậy, sao tôi không nghĩ ra từ trước chứ?”
Giản Châu lẩm bẩm gì đó mà tôi nghe không rõ, và khi tôi định nói, anh ta bỗng ngẩng đầu lên nhìn tôi, ánh mắt đẫm lệ, môi khẽ mấp máy: “Giang Nguyệt, cuối cùng tôi cũng đợi được đến ngày này.”
Tôi thực sự bối rối. Cái gì vậy? Từ khi nào tôi và Giản Châu lại thân thiết đến thế? Sao anh ta lại khóc? Chuyện gì kỳ lạ vậy?
“Ờ, thôi anh đừng khóc nữa. Trời cũng đã muộn rồi, tôi phải về Địa Phủ đây. Anh bận gì thì cứ làm, tôi đi trước nhé.”
Tôi vội vàng quay người, muốn nhanh chóng rời đi. Chẳng biết cửa Địa Phủ đã đóng chưa, nếu lỡ rồi thì tiêu!
“Đừng đi!” Giản Châu lập tức nắm lấy cổ tay tôi: “Tôi đã đợi em suốt năm trăm năm rồi.”
Gì cơ? Đợi tôi năm trăm năm? Đùa kiểu này hơi lớn quá rồi đấy!
“Giản Châu, anh bị làm sao vậy? Đợi tôi năm trăm năm? Tôi mới biết anh chưa bao lâu mà!”
Chưa kịp nói xong, tôi khựng lại. Đúng rồi, tôi nhớ đến câu chuyện mà Mạnh Bà kể, câu chuyện về Công chúa Hoa Dương và Phó Dần Lễ.
“Ph… Phó Dần Lễ? Anh là Phó Dần Lễ?” Tôi không dám tin.
Giản Châu gật đầu, mắt ngấn lệ, khẽ nói: “Là tôi, Giang Nguyệt, cuối cùng tôi cũng đợi được em rồi.”
12.
Tôi nhất thời khó mà tiếp nhận nổi điều này, càng không dám tin rằng mình chính là nhân vật trong câu chuyện đó, vị công chúa mất nước vào năm Khang Bình thứ bảy.
Tôi khó khăn nuốt một ngụm nước bọt, cố giữ bình tĩnh nói với Giản Châu: “Vậy anh là Phó Dần Lễ, nhưng tôi không nhất thiết là Công chúa Hoa Dương. Chúng ta cùng tên, nhưng công chúa họ Giang, còn tôi là họ Lâm.”
“Thôi vậy đi, tôi phải đi rồi!”
“Em có một vết bớt hình trăng khuyết nhạt màu ở phía trong cánh tay phải.” Thấy tôi định đi, Giản Châu vội vàng nói.
Tôi dừng bước, vì quả thật tôi có một vết bớt như vậy, màu nhạt và hình trăng khuyết, đúng như lời anh ta nói.
Lẽ nào tôi thật sự là Công chúa Hoa Dương? Điều này quá sức tưởng tượng!
Chờ đã, Mạnh Bà có nhắc đến một bán linh sống từ thời Khang Bình thứ bảy, và Giản Châu nói rằng anh ta đợi tôi suốt năm trăm năm. Chẳng lẽ anh ta chính là bán linh đó?
“Anh là bán linh? Anh trở thành bán linh và sống suốt năm trăm năm?”
Tôi không kìm được mà đưa tay dưới mũi anh ta. Đúng là, anh không có hơi thở.
Giản Châu gật đầu: “Phải, tôi đã đợi em suốt năm trăm năm. Cuối cùng, tôi đã đợi được.”
Tôi lấy tay che miệng, cảm thấy mọi thứ thật khó tin, như thể mình đang trong một giấc mơ kỳ lạ và hoang đường.
“Anh có thể kể tôi nghe mọi chuyện đã xảy ra không? Kể cả việc làm sao tôi lại đến đây?” Lợi dụng lúc đầu óc còn có thể suy nghĩ, tôi vội hỏi.
“Là chiếc đèn dẫn hồn đã đưa em đến đây.”
Theo Giản Châu kể, năm đó Quốc công phủ bị một tổ chức lớn bày mưu hãm hại, dựng lên một loạt tội danh hoàn toàn bịa đặt để đổ lỗi cho Quốc công phủ.
Hơn thế nữa, chúng không chỉ nhắm đến việc lật đổ Quốc công phủ, mà còn nhắm vào các gia tộc lớn khác trong kinh thành. Mục tiêu của họ là đánh cắp bản đồ phòng thủ kinh thành của Dụ Quốc, sau đó bán lại cho các nước khác để trục lợi.
Hoàng đế tức giận là sự thật, nhưng ông cũng nhanh chóng nhận ra điều bất thường. Tuy nhiên, tổ chức này hoạt động quá kín kẽ, khiến hoàng đế dù đã điều tra rất lâu vẫn không tìm ra kẻ chủ mưu đứng sau.
Do đó, hoàng đế hợp tác với Quốc công phủ để dựng lên một vở kịch, cố tình chèn ép các quý tộc nhằm đánh lừa kẻ địch. Ông nghi ngờ rằng trong quân đội đóng ở biên cương có kẻ ngầm cấu kết với tổ chức này, nên đã phái Phó Dần Lễ đến biên cương điều tra chân tướng. Trong thời gian đó, Phó Dần Lễ vẫn duy trì liên lạc với hoàng đế từ quân ngũ.
Nhưng khi Phó Dần Lễ vừa tìm được manh mối, tổ chức đó đã thâm nhập khắp nơi, đến cả hoàng cung vốn canh gác cẩn mật cũng có nội gián của chúng. Nhờ sự phối hợp từ bên trong và bên ngoài, chúng đã đánh cắp thành công bản đồ bố trí kinh thành. Không những thế, chúng còn giả mạo quân lệnh để điều động quân bảo vệ kinh thành và các đội quân ở các thành khác.
Lợi dụng thời điểm kinh thành Dụ Quốc trống trải, quân Nam Việt lập tức tiến đánh kinh thành. Mọi chuyện xảy ra quá đột ngột, đến mức hoàng đế chưa kịp phản ứng đã bị quân Nam Việt bắt giữ. Đồng thời, tất cả hoàng tộc trong cung cũng bị nhốt vào những ngục tối tăm không thấy ánh sáng mặt trời.
Và như Mạnh Bà đã kể, Dụ Quốc diệt vong.
“Cho nên Công chúa Hoa Dương có biết về kế hoạch của anh và hoàng đế không?” Tôi khẽ hỏi.
“Biết. Giang Nguyệt biết mọi chuyện. Cô ấy từng nói, khi mọi việc kết thúc, sẽ xin hoàng đế hạ chỉ để chúng tôi thành thân, cô ấy muốn làm tân nương hạnh phúc nhất thế gian.”
Giản Châu ánh mắt thẫn thờ, nói tiếp: “Nhưng tôi còn chưa kịp cưới cô ấy, cô ấy đã rời xa tôi mãi mãi.”
“Đây là lý do anh trở thành bán linh sao? Anh hóa thành bán linh chỉ để đợi Công chúa Hoa Dương quay lại thế gian này à?”
“Phải.” Giản Châu ngước lên nhìn tôi, “Thật may là tôi đã đợi được.”
“Nhỡ tôi không phải thì sao?”
“Cô nhất định là cô ấy.” Giản Châu khẳng định chắc nịch, “Chính đèn dẫn hồn đã đưa cô đến đây, đèn này sẽ không sai đâu.”
Tôi chỉ vào chiếc đèn bên cạnh anh ta: “Đây là đèn dẫn hồn? Anh đến Điện Diêm La là để lấy nó sao?”
Giản Châu gật đầu: “Sau khi hóa thành bán linh, tôi đã luôn tìm cách gặp lại cô. Tình cờ, tôi đọc được trong một cuốn sách cổ rằng Điện Diêm La có một chiếc đèn dẫn hồn cực kỳ trân quý. Chỉ cần nhỏ vài giọt máu người mỗi ngày, đèn sẽ có thể dẫn dắt linh hồn người đã khuất đến vào dịp tết Trung Nguyên, để hai người có thể gặp nhau.”
13.
“Sao anh ngốc thế? Nhỡ trong sách ghi sai thì sao?”
“Dù có một phần vạn cơ hội gặp lại em, tôi cũng phải thử.” Giản Châu mỉm cười, giọng điệu đầy chân thành.
Nhìn thấy nụ cười của anh, tôi chợt ngẩn người. Trong khoảnh khắc, hình ảnh một thiếu niên vụt qua tâm trí tôi, nhưng nó thoáng qua quá nhanh, tôi không kịp nắm bắt.
Tiếng chuông nửa đêm đã vang từ lâu, có lẽ cửa Địa Phủ đã đóng rồi, không kịp về thì thôi vậy.
Không hiểu sao, tôi cũng bắt đầu tin rằng mình chính là Công chúa Hoa Dương mà Giản Châu và Mạnh Bà đã nhắc đến.
Trong bóng đêm tĩnh lặng, tôi ngồi bên cạnh Giản Châu trên khoảng đất trống chỉ có hai chúng tôi, ánh sáng yếu ớt từ chiếc đèn dẫn hồn lặng lẽ chiếu rọi. Chúng tôi không nói gì, không suy nghĩ gì, chỉ ngồi đó yên bình.
“Thật ra, trên đời này không chỉ có mình tôi là bán linh.” Giản Châu bỗng nhiên lên tiếng.
“Còn bán linh nào khác sao? Là ai?” Tôi hỏi với vẻ hoảng sợ.
Giản Châu đột nhiên lạnh lùng đáp: “Doãn Hạo.”
“Doãn Hạo?” Tôi ngạc nhiên: “Anh ta là ai? Tôi có quen anh ta không?”
Giản Châu dần dịu giọng lại, nhìn tôi và nói: “Tôi suýt quên là em không có ký ức của kiếp trước. Doãn Hạo là biểu huynh của em, con trai của Trưởng Công chúa. Gần đây, tôi mới biết rằng anh ta cũng là một bán linh, giống như tôi.”
Nhận thấy sự thù địch trong giọng nói của Giản Châu khi nhắc đến Doãn Hạo, tôi thử dò hỏi: “Anh ta không tốt sao? Tôi nghe Mạnh Bà nói rằng người hóa thành bán linh đều vì có một loại chấp niệm mạnh mẽ. Vậy chấp niệm của anh ta là gì?”
Giản Châu nghiêm túc nhìn tôi và nói: “Tôi chưa thể chắc chắn, nhưng tôi đã từng phát hiện một số manh mối liên quan đến Doãn Hạo. Có lẽ, chúng ta có thể cùng nhau làm rõ sự thật.”
“Sự thật?” Tôi mơ hồ, “Nghe anh nói, dường như anh ta còn che giấu điều gì đó?”
Giản Châu nhìn ra xa, đáp nhẹ: “Có hay không, điều tra rồi sẽ rõ thôi. Cô có muốn cùng tôi tìm hiểu sự thật không?”
Câu hỏi rất đỗi bình thường, nhưng khi thốt ra từ Giản Châu, nó mang theo sức mê hoặc khó lòng từ chối.
Thời gian dần qua, tôi và Giản Châu chìm vào giấc ngủ trên khoảng đất hoang vắng.
Nửa đêm, tiếng nói mớ trong cơn ác mộng của Giản Châu khiến tôi giật mình tỉnh giấc:
“Đừng! Đừng mà!
“Giang Nguyệt, em không thể chết!
“A… A… Giang Nguyệt!”
Tôi lắng tai nghe và nhận ra Giản Châu đang nói mê trong giấc ngủ.
Có lẽ anh đang trải qua ký ức đau đớn nhất của mình, như Mạnh Bà đã kể: nỗi đau mất đi người yêu thương nhất và chứng kiến cảnh đất nước diệt vong.
Tôi không tự chủ mà đưa tay lên vuốt nhẹ lên trán anh, muốn làm giãn vết nhăn. Nhưng ngay khi vừa chạm vào, Giản Châu đột nhiên tỉnh giấc, thở hổn hển, từng hơi thở gấp gáp.
Tôi nhẹ nhàng hỏi: “Anh không sao chứ?”
Giản Châu hít sâu, rồi từ từ thở ra: “Tôi không sao. Có làm cô sợ không?”
Tôi lắc đầu, ánh mắt nhìn xuống: “Tôi có thể hỏi chấp niệm của anh là gì không? Thứ gì khiến anh có thể chịu đựng những cơn ác mộng mỗi đêm, sống cô độc suốt năm trăm năm không người thân, không bạn bè mà vẫn không từ bỏ?”
Anh mỉm cười và khẽ đáp: “Là cô.”
Tôi sững sờ, không nói nên lời. Thật sự có tình yêu lớn lao đến vậy sao? Vì chỉ mong gặp lại người yêu một lần, mà cam chịu sống cô độc, đau khổ suốt ngần ấy năm.