Nghiệp Đến Trễ Nhưng Vẫn Đến - Chương 1
01
Nhà hàng xóm của tôi có dì Phùng, một người mắc bệnh “mắt đỏ” đúng nghĩa – ghen ăn tức ở đến phiền phức.
Hồi nhỏ, mỗi lần trường công bố điểm, dì Phùng thế nào cũng mò đến hỏi cho ra điểm số của tôi.
Nếu tôi học kém, dì nhất định phải đứng giữa xóm mà cười nhạo tôi một trận ra trò.
Còn nếu tôi mà thi điểm cao hơn con gái dì là Phùng Vĩnh Tú, thì dì về nhà đánh con ngay.
Kỳ thi cuối năm lớp ba, điểm tôi chỉ hơn Phùng Vĩnh Tú đúng 0.5 điểm.
Dì Phùng lôi thẳng cô ta ra giữa sân, đánh một trận nhừ tử để “nhớ đời”.
Hôm đó lại trúng ngay giờ tan tầm, ai nấy đều vừa tan làm xong, trong khu tập thể đông như hội.
Phùng Vĩnh Tú bị đánh đến gào không thành tiếng, vừa khóc vừa né tránh, vừa cầu xin tha.
Dì Phùng cầm cái mắc áo quật tới tấp, tay không hề nhẹ chút nào.
Cô ta càng la to, dì đánh càng hăng, như thể chỉ có vậy mới xả được hết nỗi bực bội trong lòng.
Nhiều người lớn trong khu tập thể chạy ra can.
Dì Phùng thì mắng oang oang, lý lẽ hùng hồn: “Tôi dạy con tôi, mắc mớ gì đến các người! Sau này ra xã hội mà nó không giỏi bằng người ta, mấy người lo nuôi nó chắc?”
Nói xong, cái mắc áo trong tay dì lại quất vù vù trong không khí.
Càng bị khuyên, dì đánh càng dữ.
Mọi người thấy vậy thì chẳng ai dám lại gần nữa.
Đến khi đánh mệt rồi, dì Phùng dùng móng tay dài cào thẳng vào trán con gái.
Trán của Phùng Vĩnh Tú lập tức bị cào rách, máu rịn ra thành một vệt đỏ bầm.
“Mày còn khóc cái gì mà khóc? Học chung một lớp mà mày còn không bằng nổi Khúc Nam Thịnh, khóc cái nỗi gì? Không biết nhục à?”
Phùng Vĩnh Tú khóc đến mồ hôi đầm đìa, cả khuôn mặt đỏ bừng.
Hai bím tóc, một bên bị giật rối tung, một bên thì bị buộc méo xệch.
Áo quần cũng bị dì Phùng túm kéo đến xộc xệch.
Tôi sợ quá, nấp sau lưng mẹ, không dám hé răng.
Nhưng trong lúc khóc, Phùng Vĩnh Tú lại bất ngờ quay sang nhìn tôi bằng ánh mắt đầy căm thù và oán hận.
Như thể tôi mới là nguyên nhân khiến cô ta ra nông nỗi ấy.
02
Hồi nhỏ tôi cũng vô tư, chẳng hiểu nổi những lời châm chọc và hạ thấp đầy ác ý của dì Phùng.
Thành tích của tôi luôn ở mức trung bình trong lớp, kém hơn Phùng Vĩnh Tú.
So sánh lâu dần, nhà họ Phùng mặc định luôn rằng tôi vốn dĩ không bằng được cô ta.
Thế nên, chỉ cần tôi – cái “chuẩn tham chiếu” này – mà thi cao hơn Vĩnh Tú, dù chỉ một chút, thì với họ, điều đó có nghĩa là cô ta đã thấp hơn cái đáy tiêu chuẩn mà nhà Phùng đặt ra.
Dì Phùng sao có thể nuốt trôi chuyện đó?
Thế là cả mùa hè đó, Phùng Vĩnh Tú không được bước chân ra khỏi nhà.
Ngày đầu tiên khai giảng học kỳ mới, tôi mới lại gặp cô ta.
Nhưng cảm giác mà cô ta mang lại rất kỳ lạ.
Ánh mắt của Phùng Vĩnh Tú luôn tỏ ra ngạo nghễ, kiểu tự cho mình là nhất.
Không chỉ tôi mà cả lớp đều cảm nhận được điều đó.
Cô ta chẳng thèm chơi với ai, nhìn ai cũng bằng ánh mắt đầy khinh thường.
Đặc biệt là sau kỳ thi giữa kỳ đầu năm học mới, cô ta từ vị trí ngoài top 100 vọt thẳng lên đứng nhất khối, thái độ kiêu ngạo cũng leo thang đến cực điểm.
Sáng thứ Hai chào cờ, thầy hiệu trưởng mời Phùng Vĩnh Tú lên phát biểu với tư cách học sinh xuất sắc.
Cô ta đảo mắt một cách điệu đà, bước lên bục phát biểu, rồi đứng trước toàn thể giáo viên và học sinh mà huênh hoang không biết ngượng: “Việc học của tôi chẳng có bí quyết gì đâu, chỉ là một ngày nào đó đột nhiên tôi thông suốt, thế là tôi đứng nhất thôi. Tôi không phải xem thường ai, nhưng mấy đứa gà con ngồi đây trong mắt tôi toàn là đồ bỏ đi. Mấy con gà con nghe cho rõ, từ giờ đến khi tốt nghiệp tiểu học, tên tôi sẽ là cơn ác mộng của tụi bây, bởi vì bảng xếp hạng sẽ luôn có tôi đứng đầu.”
…
Cả sân trường xôn xao náo loạn.
Mặt thầy hiệu trưởng đen như đáy nồi.
Cô chủ nhiệm thì tái mặt ngay lập tức.
Chỉ có Phùng Vĩnh Tú đứng giữa bục giảng, mặt đỏ bừng vì phấn khích, như thể vừa tung ra một tuyên ngôn vĩ đại.
Tôi không biết có phải mình hoa mắt không, nhưng ánh mắt mà Phùng Vĩnh Tú nhìn tôi lại đầy thách thức và thù hằn.
Tôi hơi ngơ người.
Cô ta đã đứng nhất rồi, còn nhìn tôi làm gì?
Chẳng lẽ… đến giờ Phùng Vĩnh Tú vẫn cần tôi để so sánh sao?
03
Phùng Vĩnh Tú bị mời phụ huynh.
Tôi còn nhớ ngày trước cô ta từng khóc với tôi kể đủ thứ chuyện.
Nào là: mẹ cô ta luôn đặt yêu cầu rất cao.
Nào là: cô ta chịu nhiều áp lực, sợ thi không tốt.
Rồi cả chuyện: cô ta không muốn lớn lên giống mẹ mình, vì trông rất chanh chua, độc đoán.
Vậy mà giờ đây, dì Phùng và Phùng Vĩnh Tú giống nhau như đúc – đúng kiểu được đằng chân lân đằng đầu.
“Làm cha mẹ thì đương nhiên phải dạy con, không thì con gái tôi sao tiến bộ nhanh thế, đứng đầu cả khối được? Con tôi đứng nhất, còn nhỏ nên có chút hư vinh, nói vài câu đắc ý thì sao chứ? Giáo dục trong nhà là chuyện của gia đình, giáo dục ở trường lại là chuyện khác! Tôi đã dạy thế còn chưa đủ, bắt tôi nghỉ làm đến đây dạy thay thầy cô à?”
…
Hôm đó, đám học sinh vây trước cửa văn phòng được phen mở mang tầm mắt.
Tôi trốn trong đám bạn, kiễng chân lên, cố rướn người để nhìn vào trong.
Tôi sợ dì Phùng sẽ đánh Vĩnh Tú ngay trước mặt thầy hiệu trưởng và cô giáo chủ nhiệm.
Nhưng thứ tôi thấy lại là Phùng Vĩnh Tú hơi ngẩng cằm lên, trên mặt nở một nụ cười kỳ quái.
Cứ như thể người nực cười không phải cô ta, mà là hiệu trưởng với giáo viên.
Hiệu trưởng tức đến nổ phổi, vừa nghe thấy tiếng học sinh xì xào bên ngoài là liền sầm mặt đi ra mở cửa.
Cửa vừa mở ra, mấy đứa học sinh tò mò ngã lăn vào trong.
Trong số đó có cả tôi.
“Mẹ ơi, nhìn kìa! Là Khúc Nam Thịnh!”
Dì Phùng khoanh tay trước ngực, nhìn tôi với ánh mắt đầy khinh bỉ.
“Học dốt thì vẫn là học dốt, học cái gì không học, giỏi cái trò rình mò! Thầy hiệu trưởng, con gái tôi dù có sai đi nữa, thì cũng là học sinh đứng đầu cả khối. Còn cái Khúc Nam Thịnh này, lén lút đi nghe trộm, ai biết nó đã bày trò gì sau lưng? Thầy có định nhắc lại cho rõ thế nào là giáo dục học đường không?”
Cô giáo định lên tiếng bênh tôi: “Khúc Nam Thịnh bình thường ngoan lắm, em ấy…”
Dì Phùng lập tức chớp lấy cơ hội: “Bình thường ngoan, vậy lần này là cố tình rồi! Nam Thịnh à Nam Thịnh, con là đang ghen tị vì nhà cô có Vĩnh Tú đứng đầu phải không? Từ trước tôi đã thấy con chẳng phải dạng đơn giản gì, không ngờ mới học tiểu học đã dắt cả đám con trai đi nghe lén như thế!”
Phùng Vĩnh Tú rõ ràng rất hả hê, tôi bỗng thành cái bia để mọi người chĩa mũi dùi vào.
Lúc đó tôi mới chín tuổi, miệng mồm thì chậm chạp.
Dì Phùng ba câu là chụp tội cho tôi xong xuôi, người lớn trong phòng thì ai nấy đều nhìn tôi chằm chằm, tôi suýt nữa đã òa khóc tại chỗ.
Vài bạn nam trong nhóm vội lên tiếng cãi: không phải do tôi, là tụi nó tự đến.
Nhưng thầy hiệu trưởng vẫn mặc định tôi là kẻ cầm đầu, thế là mời cả phụ huynh tôi tới.
Bố mẹ tôi nhìn thấy dì Phùng cũng ở đó là hiểu được nửa phần câu chuyện.
Sau khi nghe hiệu trưởng và cô giáo phân tích một hồi, vì phụ huynh mấy bạn nam kia cũng đến, thế là mỗi nhà bị mắng mấy câu rồi cho qua.
Chỉ có điều tôi phải viết một bản kiểm điểm 300 chữ.
Trong khi lúc đó, ngay cả một bài văn 100 chữ tôi còn vật lộn mãi mới viết nổi.
Chuyện này lại bắt tôi nhận sai, tôi khóc mãi mà vẫn không hiểu nổi mình sai ở đâu!
Bố tôi nhìn tôi sụt sịt mũi, thấy vừa buồn cười vừa bất lực.
“Con rảnh quá không lo học, đi nghe lén làm gì? Đã thế chân ngắn, bị bắt còn không biết chạy?”
Mẹ tôi thì chịu không nổi nữa, chửi luôn: “Đầu óc ngu ngơ, có miệng mà không biết nói, có chân cũng không biết chạy! Con đứng trước mặt hiệu trưởng với giáo viên mà tưởng mình đang đóng phim truyền hình đấy à? Cứ nghĩ ai cũng hiểu con có nỗi khổ riêng, rồi đến cuối phim sự thật sẽ sáng tỏ ấy hả? Cuối cùng, người chịu thiệt chẳng phải bố mẹ con sao? Sao mẹ lại đẻ ra cái đứa ngốc như con chứ!”
Tôi cuối cùng không nhịn được nữa, bật khóc nức nở.
“Con sợ dì Phùng đánh Phùng Vĩnh Tú nên mới đi xem thử… Thế mà cô ta lại nói là do con… hu hu hu. Dì ấy còn bảo con ghen tị với Phùng Vĩnh Tú nên mới dẫn các bạn đi nghe lén, trong khi rõ ràng là tụi con cùng rủ nhau mà…”
Tôi khóc rất lâu, đến mức dùng gần hết mấy hộp khăn giấy trong nhà.
Cuối cùng, mẹ tôi vẫn tức tối nói với bố: “Xong rồi, con này tâm thì tốt mà đầu óc thì ngu, đúng kiểu cây gậy bọc đường!”
04
Phùng Vĩnh Tú nói đúng, ba năm sau đó, tên cô ta thật sự liên tục chiếm giữ vị trí số một toàn khối.
Cô ta tham gia vô số kỳ thi học sinh giỏi, từ cấp quận lên thành phố, cuối cùng đến cả cấp tỉnh cũng giành giải cao.
Cúp và giấy khen nhiều đến mức cầm mỏi tay.
Mỗi lần đoạt giải, dì Phùng lại ầm ĩ khắp khu tập thể, đi đâu cũng khoe rùm beng.
Phùng Vĩnh Tú trở thành “thần đồng nhí” nổi tiếng cả thành phố.
Còn dì Phùng, nhờ cái danh “dạy con giỏi”, thành nhân vật vừa truyền kỳ vừa bị ghét nhất trong khu và cả trường.
Tôi và Phùng Vĩnh Tú cũng ngày càng xa cách.
Thực ra, từ rất sớm dì Phùng đã không cho Vĩnh Tú chơi với những bạn học đứng ngoài top 10.
Chẳng qua hồi nhỏ, tôi là người duy nhất nằm trong cái “vòng tròn” mà dì vạch sẵn cho con, là người bạn mà cô ta cố giữ bằng chút phản kháng yếu ớt.
Vậy nên hồi còn bé, tôi thật sự không hiểu, vì sao Vĩnh Tú lại đột nhiên lạnh nhạt và oán ghét tôi đến vậy.
Cho đến một lần tôi vô tình nghe thấy cô ta nói chuyện với mấy bạn gái học giỏi trong lớp chọn.
Có người hỏi: “Vừa nãy tớ thấy Khúc Nam Thịnh đi ngang qua, cậu với cậu ấy không phải bạn tốt à? Có đợi cậu ấy cùng về không?”
Tim tôi bỗng khẽ rung lên một cái.
Đã lâu rồi tôi và cô ta không cùng nhau tan học về nhà.
Nhưng Phùng Vĩnh Tú lại đáp: “Khúc Nam Thịnh á? Cậu nghĩ gì vậy? Tớ với nó… chưa từng là bạn. Nó có nhà giàu, có người quen trong ngành? Hay nhan sắc nổi bật? Hay thành tích học tập kém cỏi vĩnh viễn không bằng tớ? …Một đứa như nó, xứng làm bạn tớ chắc?”
Đó là lần đầu tiên tôi hiểu ra: Thì ra, để làm bạn với ai đó, còn cần đủ loại “giá trị đi kèm”.
Chân thành, lại hóa ra là thứ không đáng một xu.